Từ tư thế sai đến cách viết chưa chuẩn
Học sinh lớp 1 thường gặp một số lỗi như: Viết chữ chưa đúng cỡ,
chưa đúng độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm dừng bút chưa đúng. Chữ viết chưa
liền mạch, nối chữ chưa đúng quy định.
Vị trí dấu thanh, dấu phụ các em
cũng đặt chưa đúng. Nhiều em viết dấu quá to hoặc quá bé, dấu đặt xa chữ, có em
dấu chạm vào chữ, dấu không đúng chữ ghi âm chính.
Có em viết xấu, chữ viết không
đều, nét cao, nét thấp, nét ngắn, nét dài, nét nghiêng ngả, nhất là con chữ “o”
và những con chữ được kết hợp bởi nét cong tròn các em đều viết méo, hoặc
nghiêng nghẹo, không có em nào viết được chữ “o” tròn theo đúng quy định,
khoảng cách giữa các chữ không đều.
Bên cạnh đó, một số em tư thế ngồi viết sai, cách cầm bút chưa
đúng. Đa số các em ngồi cúi mặt sát với vở, vẹo lưng, lệch vai, khuỳnh tay...
Rất nhiều học sinh cầm bút bằng 4
đầu ngón tay, có em cầm cả 5 ngón tay, thậm chí cầm 3 ngón tay nhưng chưa chụm
cả 3 ngón tay vào quản bút, cán bút vuông góc với mặt vở, có em cầm bút ngả về
phía trước, có em khoằm tay vào phía trong…
Tư thế ngồi viết đúng
Để học sinh có thể tránh được một
số bệnh học đường trong trường học như: bệnh cong vẹo cột sống, bệnh cận thị…,
giáo viên phải luyện cho học sinh có được một tư thế ngồi viết thật đúng, thật
thoải mái.
Muốn vậy, người giáo viên phải có
tư thế ngồi thật đúng để học sinh bắt trước. Ngay từ những tiết học đầu tiên GV
đã làm mẫu kết hợp giải thích, hướng dẫn rất tỉ mỉ về từng động tác tư thế ngồi
học để các em hiểu và làm theo như sau:
Lưng thẳng; không tì ngực vào bàn;
đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30cm; tay phải cầm bút, tay trái tì nhẹ lên mép
vở để giữ; hai vai ngang bằng; hai chân để song song vuông góc với mặt đất,
thoải mái.
Học sinh mới vào lớp 1 chưa có
khái niệm về đơn vị đo độ dài nên chưa thể tự ước lượng được khoảng cách từ
25cm - 30cm nên giáo viên cho học sinh chống cùi chỏ tay trên mặt bàn, ngửa bàn
tay ra, áp trán vào sát lòng bàn tay để ước lượng khoảng cách mặt với vở và
luôn giữ ở vị trí cố định như vậy khi viết, em nào quên có thể tự ước lượng lại
được.
Cách cầm bút
Cầm bút bằng ba đầu ngón tay: ngón
cái, ngón trỏ, ngón giữa. Khi viết dùng ba ngón tay di chuyển bút từ trái sang
phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khủy tay và cánh tay cử động mềm
mại, thoải mái. Không nên cầm bút tay trái.
Giáo viên làm mẫu và hướng dẫn tỉ
mỉ cách cầm bút: Ngón cái và ngón trỏ đặt ở phía trên, ngón giữa ở phía dưới đỡ
đầu bút cách đầu bút khoảng 1 đốt ngón tay.
Khi viết đưa bút từ trái qua phải,
từ trên xuống dưới, các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải nhẹ tay.
Cách để vở, xê dịch vở khi viết
Khi viết chữ đứng học sinh cần để
vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng (tự chọn) cần để vở hơi
nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15
độ.
Khi viết độ nghiêng của nét chữ
cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu
chữ đứng hay chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về
cách để vở).
Khi viết xuống những dòng dưới,
các em tự đẩy vở lên trên để cánh tay luôn tì lên mặt bàn làm điểm tựa khi
viết.
Trước lúc viết, giáo viên thường
cho học sinh nhắc lại tư thế ngồi học, cách cầm bút để vở để học sinh thực hiện
theo đúng quy định.
Trong quá trình học sinh viết rất
hay quên, thay đổi tư thế ngồi đúng, lúc đó GV lại phải kiên nhẫn chỉnh sửa cho
từng em. Lặp đi lặp lại nhiều lần, các em cũng dần dần ngồi đúng, cầm bút đúng.
Giáo viên nắm chắc mẫu chữ chuẩn
Việc nắm chắc các mẫu chữ hiện
hành theo chuẩn của Bộ GD&ĐT và việc viết tốt mẫu chữ quy định là một yêu cầu
cần thiết không thể thiếu được đối với người giáo viên tiểu học. Đây chính là
một tiêu chí mà mọi giáo viên phải đặt ra và thực hiện.
Khi viết mẫu cho học sinh, viết chậm lại đủ để cho học sinh quan
sát, vừa viết vừa kết hợp nhịp nhàng với giảng giải, phân tích: Đặt bút từ điểm
nào, rê bút như thế nào, đưa bút vào vị trí nào, thứ tự các nét viết ra sao,
dừng bút ở điểm nào?
Phân tích cả cách viết dấu phụ,
dấu thanh để học sinh dễ dàng nhận biết được cách viết; hướng dẫn cả về khoảng
cách giữa các chữ ghi tiếng để học sinh không viết sát quá hoặc cách xa quá.
Đồng thời tư thế đứng viết của
giáo viên cũng phải hợp lý để học sinh quan sát được tay của cô khi viết và
theo dõi được cả quy trình viết chữ.
Khi hướng dẫn viết mẫu trên bảng
lớp, lời nói của giáo viên phải nhẹ nhàng, gần gũi, chuẩn mực và dễ hiểu, tránh
dùng các khái niệm khó hiểu hoặc cách nói mơ hồ không rõ ràng, nên dùng đúng
các thuật ngữ cách gọi khi dạy viết chữ Tiếng Việt như: chữ ghi âm, chữ ghi
vần, chữ ghi tiếng, chữ ghi từ...
Hướng dẫn tỉ mỉ cách viết từng con
chữ, nét nối chính xác theo đúng quy định cho học sinh.
Không nên nói nôm, nói ngọng, nói
lộn xộn hoặc nói quá nhiều gây căng thẳng khó hiểu cho học sinh. Sau đây là mẫu
chữ cái viết thường trong trường tiểu học mà GV đã tìm hiểu và nghiên cứu.
Kỹ thuật viết đúng, viết đẹp
Trước tiên, hướng dẫn học sinh nắm
được các thuật ngữ dòng kẻ:“Dòng kẻ ngang 1, ngang 2, ngang 3; ngang 4, ngang
5. Ô li 1, ô li 2…ô li 5. Đường kẻ ngang trên, ngang dưới của một ô li. Dòng kẻ
dọc 1, dòng kẻ dọc 2, … dòng kẻ dọc 5”trong vở ô li, Vở Tập viết, trên bảng con,
bảng lớp.
Tiếp theo, hướng dẫn cho học sinh
nắm chắc và viết tốt các nét cơ bản của chữ. Nắm được tên gọi và cấu tạo của
từng nét cơ bản bao gồm: Nét ngang, nét sổ, nét xiên trái, nét xiên phải, nét
móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu (là kết hợp của nét móc xuôi và nét
móc ngược), nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong khép kín, nét khuyết
trên, nét khuyết dưới, nét thắt .
Việc nắm chắc cách viết, viết
đúng, viết đẹp thành thạo các nét cơ bản sẽ nắm được cấu tạo của từng chữ cái
giúp cho việc nối các nét thành chữ cái sẽ dễ dàng hơn.
Sau đó, dạy học sinh cách xác định
tọa độ của điểm đặt bút và điểm dừng bút phải dựa trên khung chữ làm chuẩn.
Hướng dẫn học sinh hiểu điểm đặt
bút là điểm bắt đầu khi viết một nét trong một chữ cái hay một chữ.
Điểm dừng bút là vị trí kết thúc
của nét chữ đa số điểm kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Riêng đối
với con chữ “o” vì là nét cong tròn khép kín nên điểm đặt bút trùng với điểm
dừng bút.
Để chữ viết không bị rời rạc, đứt
nét, giáo viên nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc các em viết đều nét, liền mạch
đúng kĩ thuật.
Khắc sâu những lỗi học sinh thường
gặp khó khăn
Giáo viên cần nhấn mạnh chỗ ghi
dấu thanh với vần, từng loại vần. Cái khó với học sinh là không biết ghi dấu
thanh ở vị trí nào nhất là những chữ có từ 2 đến 3 chữ cái trở lên.
Khi dạy mỗi vần mới, cuối cùng, GV
đều cho học sinh nhận xét chốt lại những chữ ghi vần đó thì viết dấu thanh ở
chữ cái ghi âm gì. Đặc biệt ở bài ôn tập mỗi loại vần GV đều khắc sâu vị trí
ghi dấu thanh.
Với chữ có dấu phụ là dấu mũ như
ô, ơ, ê, thì thanh sắc, huyền, hỏi phải ghi ở bên phải dấu mũ còn thanh ngã thì
ghi ở giữa, phía trên của dấu mũ, các dấu thanh phải ngay ngắn, cân đối nằm
đúng dòng li quy định và không được chạm vào chữ cái hay dấu phụ.
Trong quá trình chấm chữa bài,
giáo viên cần chữa những lỗi học sinh sai phổ biến nhất, hướng dẫn kỹ lại cách
viết của chữ đó để học sinh khắc sâu cách viết một lần nữa. Cho cả lớp xem bài
viết đẹp. Kịp thời động viên, khích lệ những học sinh có chữ viết tiến bộ.
Kết hợp song song với các môn học khác
Để học sinh viết đúng và đẹp thì
phải tiến hành song song và đồng bộ việc dạy - học phân môn Tập viết với các
môn học khác. Học sinh không chỉ viết đúng và đẹp ở vở Tập viết mà cần phải
viết đẹp ở tất cả các loại vở.
Muốn viết đẹp và thành thạo thì
cần phải nắm được kĩ thuật viết. Muốn viết đúng, không sai, không mắc lỗi thì
cần phải đọc đúng, đọc hiểu. Vì vậy trong quá trình dạy học cần phải rèn cho
học sinh không những viết thạo mà còn phải đọc thông.
Để làm được điều này khi dạy các
giờ Tập viết, Học vần, Tập đọc, Chính tả, giáo viên luôn chú ý hướng dẫn học
sinh phát âm đúng, phân biệt và sửa ngọng cho những học sinh đọc còn ngọng.
Giúp các em đọc đúng, hiểu đúng
những từ ngữ địa phương hoặc những tiếng, những từ ngữ khó có âm đầu hay nhầm
lẫn như : l/n, x/s, tr/ch, r/d...
Tổ chức các trò chơi và phong trào thi đua
Để việc dạy - học phân môn Tập
viết thành công phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, từng li, từng tí của giáo viên. Mặt
khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa tuổi học sinh.
Không nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ gây
mỏi tay và chán.
Không nên cho các em ngồi viết
liền trong một thời gian dài dễ gây mỏi tay và chán. Cần thường xuyên tổ chức
các trò chơi thi viết chữ đẹp trong mỗi tiết học. Tổ chức thi “Giữ vở sạch -
Viết chữ đẹp” trong từng tháng.
Động viên khen ngợi kịp thời những
tổ hay cá nhân thực hiện tốt, đặc biệt những tổ hay cá nhân có tiến bộ tạo cho
học sinh sự hứng khởi hăng hái thi đua rèn luyện.
Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối
tuần, cô Năm thường dành khoảng 10 phút để tổng kết đánh giá việc rèn chữ viết
đẹp, giữ vở sạch của học sinh và tuyên dương những em có tiến bộ.
Ngoài việc phát động phong trào
thi đua, cô Năm đồng thời giới thiệu các bài viết đẹp, các trang viết đẹp của
học sinh trong buổi họp cha mẹ học sinh để cha mẹ các em cùng thi đua rèn luyện
cho con em mình.